Nhà hát Opera

Opera tại Việt Nam

NEED TO FILL

Opera-Viet-Nam---Wikipedia-tieng-Viet_opera1-16745214783831582440379.jpg
Opera-Viet-Nam---Wikipedia-tieng-Viet_hanoimoi.com.vn-uploads-images-buivietnga-2023-06-13-_img_1375.jpg
Opera-Viet-Nam---Wikipedia-tieng-Viet_thayhung3-10_56_58_515.jpg

Opera Việt Nam đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới chỉ bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 20. Trải qua nhiều năm, nghệ thuật opera tại quốc gia này đã đạt được một số thành tựu nhất định. 

Tại miền Bắc với con đường Xã hội Chủ nghĩa, nhiều vở opera được sáng tác, dàn dựng và biểu diễn bên cạnh những vở opera nổi tiếng trên thế giới. Đội ngũ nghệ sĩ và giảng viên dần được hình thành cho việc đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp. Tại miền Nam dưới chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cũng đã ghi nhận sự xuất hiện của opera trong chương trình giảng dạy và đào tạo cùng nỗ lực truyền bá và sáng tác opera từ miền Bắc. 

Đến thời hiện đại, opera tại Việt Nam vẫn gặp nhiều những vướng mắc và vấn đề trong việc phát triển từ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn đến giảng dạy. Việc quan tâm đầu tư cho loại hình nghệ thuật này vẫn chưa được chú tâm. Thể chất của người Việt Nam đối với opera đơn thuần không thể đáp ứng được, opera không thể đứng vững trước thị trường nhạc nhẹ, hay khó khăn về chi phí dàn dựng và sáng tác để công diễn một vở opera cũng là những vấn đề đáng chú ý. Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp quan tâm đến sứ mệnh khai hoá văn minh nên đã cho xây dựng ba nhà hát lớn. Nhà hát Lớn Sài Gòn hoàn thành năm 1897. Nhà hát Lớn Hải Phòng được xây dựng năm 1904 và khánh thành năm 1912. Khi người Pháp dời thủ đô về Hà Nội năm 1887, nhà hát lớn nhất được xây dựng ở đó vào năm 1901, dù mãi đến năm 1911 mới được khánh thành. Pháp đã đặt sứ mệnh của nước thuộc địa là xây dựng những nhà hát lớn và tài trợ cho các mùa diễn của họ liên quan đến việc ký hợp đồng và mời các đoàn hát nhạc kịch từ Pháp sang nước thuộc địa biểu diễn. 

Opera đã xuất hiện tại Việt Nam từ thời Pháp thuộc thông qua một số hoạt động biểu diễn tại Nhà thờ Công giáo và một số nhà hát. Trong thập niên năm 1860 và 1870, Sài Gòn đã có nhiều buổi biểu diễn nghệ thuật của người Pháp, chủ yếu là múa ballet và opera do chính quyền Sài Gòn tài trợ. Vở opera cổ điển phương Tây đầu tiên được biểu diễn tại Sài Gòn là Les deux aveugles của Jacques Offenbach, ngay khi người Pháp mới đến Sài Gòn năm 1864. Hàng năm, hội đồng thành phố này đều chỉ định ngân sách và các yêu cầu khác cho mùa biểu diễn, đồng thời phải chọn một đạo diễn, người có nhiệm vụ mời các ca sĩ và nhạc sĩ từ Pháp qua biểu diễn. Các vở opera được chọn "một cách khá bảo thủ", nhưng trong năm 1894, 12 vở được mua lại thì có 7 vở mới vừa biểu diễn tại Paris.

Từ năm 1898, hội đồng thành phố Sài Gòn đòi hỏi phải có "ít nhất 5 opera hài kịch và 5 operetta chưa được biểu diễn tại Sài Gòn trong 3 năm qua" hoặc "các tác phẩm nổi tiếng và mới ra mắt tại Pháp". Ban đầu khi chưa có nhà hát, những buổi biểu diễn này phải tạm diễn tại dinh các đô đốc gần công trường Đồng Hồ (ngày nay là giao lộ Đồng Khởi). Năm 1894, công trình mới mà về sau là Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng trên bản thiết kế của Eugène Ferret theo lối kiến trúc thời Đệ tam Cộng hòa Pháp. Năm 1932, đoàn hát opera San Carlo Opera Company từng hoạt động nửa đầu thế kỷ 20 ở Mỹ đã thực hiện chuyến lưu diễn ở hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội. Đoàn hát này dù chỉ thực hiện chuyến lưu diễn 8 ngày nhưng đã nhận được sự "hoan nghênh" từ công chúng. Thời chiến tranh Đông Dương, các tờ báo ở Sài Gòn thường gọi các loại hình nghệ thuật như tuồng, cải lương là "opéra".

Do tầm quan trọng của nghệ thuật biểu diễn trong văn hóa châu Âu, âm nhạc và kịch Pháp đến Hà Nội gần như song song với chính quyền cai trị thực dân. Những bản kịch thời sự dần được công diễn ở đó vào đầu năm 1884, và các nghệ sĩ biểu diễn người Pháp đã đi lưu diễn ở Châu Á sớm bắt đầu coi Hà Nội là điểm dừng chân trong các chuyến lưu diễn của họ. 

Nhà hát lớn Hà Nội cũng là một công trình lớn mà Chính quyền thực dân Pháp cho xây dựng trong những năm đầu thế kỷ 20. Sau khi hoàn thành, nhà hát được sử dụng làm nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển phương Tây như âm nhạc thính phòng, kịch nói, trong đó có cả opera, phục vụ chủ yếu cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có. Một số vở opera được biểu diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội khi mới được khánh thành năm 1911 có thể kể đến một số vở nổi tiếng của Franz Lehár, Gustave Charpentier, Georges Bizet, Charles Gounod… 

Trong thời điểm giữa hai cuộc thế chiến, chính quyền Đông Dương đã không còn tài trợ biểu diễn như trước nữa và cũng ít có mối quan tâm hơn, nhưng opera vẫn tiếp tục được biểu diễn cho đến sự kiện Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương.  Một số mẫu hình kịch hát cổ điển châu Âu đã được phổ biến cuối những năm 1950 và 1960 qua các vở Evgeny Onegin của Nga và Núi rừng hãy lên tiếng của Triều Tiên. Dù vậy, sự hiện diện của opera tại đất nước này đã xuất hiện từ sớm hơn ở đầu thế kỷ 20, trong đó có các hoạt động ca đoàn ở nhà thờ Công giáo và biểu diễn nghệ thuật tại một số nhà hát lớn.

Opera Việt Nam được xem là sản phẩm của người Việt được tiếp thu từ tinh hoa âm nhạc nói chung và nghệ thuật opera nói riêng của châu Âu trên cơ sở nền tảng âm nhạc truyền thống. Với vở ca kịch đầu tiên là "Tục lụy" sáng tác năm 1943 của Lưu Hữu Phước, ca kịch và ca cảnh đã phát triển phong phú hơn ở các thời kỳ chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam và có ảnh hưởng đến sự ra đời của opera Việt Nam. 

Ngoài ra, trình độ của người biễu diễn, công chúng thưởng thức cũng là những yếu tố chưa thể đáp ứng cho sự ra đời opera ở thời kỳ này. Để thể loại opera thuần Việt được ra đời, nền âm nhạc Việt Nam buộc phải có đủ các yếu tố như trình độ của người soạn nhạc, trình độ của các nghệ sĩ biểu diễn, thậm chí là cả trình độ thưởng thức âm nhạc của khán giả. Tới thời kì chiến tranh Việt Nam, nền âm nhạc nước này mới đáp ứng các yếu tố để ra đời nghệ thuật opera. Sau một thời gian dài, nghệ thuật opera tại do người Việt sáng tác đã đạt được một số thành tựu nhất định. Nhiều vở opera được viết, dàn dựng và biểu diễn bên cạnh những vở opera nổi tiếng trên thế giới. Điều này giúp có thêm thành phần những người biểu diễn và giảng dạy được hình thành cho đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp. 

Tuy nhiên, kể từ sau khi Việt Nam trải qua 2 cuộc chiến tranh lớn, sân khấu nhạc mới chuyển dần sang xu hướng kịch hát khiến cho các sáng tác opera hầu như biến mất trong khoảng thời gian dài. Nguyên nhân được cho là do hoàn cảnh lịch sử xã hội thay đổi dẫn đến thay đổi quan điểm sáng tác. Một nguyên nhân khác cũng được chỉ ra là việc đầu tư cho opera rất tốn kém bởi tính "đồ sộ" của một vở diễn. Sau khi miền Bắc Việt Nam giành được chính quyền vào năm 1954, việc biểu diễn các vở kịch nói, ca cảnh, ca kịch, tuồng, chèo, cải lương là một nguồn sự thúc đẩy thêm cho sự biểu diễn opera ở Việt Nam. 

Hoạt động biểu diễn còn được thể hiện trong các chương trình hợp tác quốc tế. Những buổi biểu diễn các vở opera nước ngoài đã tạo thêm động lực cho các ca sĩ và nhạc sĩ Việt Nam đối với nghệ thuật opera. Năm 1961, Đoàn Ca Múa nhân dân Trung ương cùng với Trường Âm nhạc Việt Nam và Dàn nhạc giao hưởng Đài Tiếng nói Việt Nam với sự giúp đỡ của một chuyên gia thanh nhạc Liên Xô đã dựng và biểu diễn vở opera Evgeni Onegin của Tchaikovsky. Năm 1964, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã biểu diễn vở Núi rừng hãy lên tiếng của Triều Tiên. Onegin do Quý Dương và Gremil do Trần Hiếu thể hiện, ngoài ra còn có Ngọc Dậu, Trần Chất và nhiều người khác cùng tham gia. Đây được xem là bước hội nhập đầu tiên của người Việt đối với nghệ thuật opera, và trở thành tiền đề cho quá trình xây dựng nền nghệ thuật opera mang tính chiến lược lâu dài. Bên cạnh đó, nhiều vở khác đã được dàn dựng và biểu diễn nhưng không được thu âm lại, qua đó không còn tư liệu lưu giữ đến ngày nay. 

Trong hoàn cảnh chiến tranh Việt Nam diễn ra khốc liệt, đã từng có nỗ lực từ miền Bắc Việt Nam muốn truyền bá opera vào miền Nam nhưng gặp nhiều khó khăn về điều kiện và phương tiện để dàn dựng một vở opera. Vở opera được ghi nhận ra đời trong hoàn cảnh này là Bông sen của Hoàng Việt, được sáng tác năm 1967, không lâu sau trước khi ông qua đời trong chiến trường. Dù được biểu diễn nhưng Bông sen đã được chuyển từ thể loại opera xuống một hình thức nhạc cảnh nhỏ để phục vụ văn nghệ. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, khu vực miền Nam Việt Nam đã tiếp nhận văn hóa cùng dòng nhạc bác học với miền Bắc. Sự thống nhất hai miền Bắc và Nam của Việt Nam cùng chính sách Đổi Mới cũng đã kéo theo sự hồi sinh của opera phương Tây tại Hà Nội, trong đó có sự kiện một tổ chức truyền bá văn hóa của Pháp mang tên Alliance française tài trợ 14 triệu đô la Mỹ cho việc trùng tu Nhà hát lớn Hà Nội. 

Năm 1978, nhà soạn nhạc người Pháp gốc Việt Nguyễn Thiên Đạo sáng tác vở opera mang tên Mỵ Châu – Trọng Thủy, đánh dấu tên tuổi của bản thân nhạc sĩ trong lĩnh vực âm nhạc cổ điển đương đại của thế giới. Đây được xem là vở nhạc kịch đầu tiên của Việt Nam được thế giới biết đến như một tác phẩm "mang tiếng nói dân tộc đặc sắc và thủ pháp biểu hiện mới mẻ". Đến những năm 1990, opera Việt Nam được biểu diễn tới công chúng nhờ vào sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Thuỵ Điển, Hội đồng Anh... nhưng vào thời điểm này, những vở opera thuần Việt dường như không xuất hiện mà chỉ có các tác phẩm nước ngoài. Đứng trước bối cảnh các dòng nhạc dân tộc và dòng nhạc bác học bị lép vế trước dòng nhạc trẻ, opera cũng chỉ được dàn dựng một cách "lác đác" với phần giao hưởng và hợp xướng. 

Việt Nam vẫn chưa có cơ hội thuận lợi cho opera phát triển. Do đó, việc sáng tác và biểu diễn opera trở nên "xa xỉ" tại Việt Nam, khiến loại hình này gần như vắng bóng. Để opera tại nước này phát triển, một số cuộc thi đã được tổ chức nhưng được nhận định vẫn chưa có nhiều hiệu quả. Theo một nguồn tin từ tổ chức Hội Âm nhạc Hà Nội, để dàn dựng được một vở nhạc kịch tại Việt Nam là "một thách thức lớn", trong đó cần có sự đầu tư về chuyên môn, nhân lực, kinh phí và thời gian dài và phải đảm bảo 3 vấn đề cơ bản: Nội dung (tác phẩm được dàn dựng), Biểu diễn và Tổ chức. Các đạo diễn người Châu Âu đã có những sáng tạo nghệ thuật trong quá trình dàn dựng các tác phẩm opera cổ điển của thế giới tại. 

Việt Nam ngày nay, đưa hình thức nghệ thuật này gần gũi với sự tiếp nhận của khán giả Việt Nam hiện đại, đồng thời vẫn phổ biến được các giá trị nghệ thuật của thể loại nhạc kịch này. Ngược lại, trong dàn dựng sân khấu, phong cách dàn dựng của opera cũng được một nghiên cứu đề xuất khai thác để áp dụng vào loại hình nghệ thuật truyền thống của nước này như chèo.. Với sự giao lưu văn hóa mở cửa, nhiều nghệ sĩ và nhà chỉ huy dàn nhạc quốc tế đã đến Việt Nam làm việc với Dàn nhạc Giao hưởng, cộng tác với các nghệ sĩ Việt Nam trong các chương trình biểu diễn xuyên Việt.

Cảm ơn bạn đã lựa chọn iguide.ai để đồng hành trải nghiệm thú vị của mình!

Những điều nên biết

Thời lượng:
180 minutes


Bạn có thể thích những hoạt động này

Chèo thuyền kayak Hồ Tuyền Lâm Đà Lạt

14/09/2024

Chèo thuyền kayak

NEED TO FILL

Đọc thêm

Chèo thuyền trượt thác - rafting tour

14/09/2024

Lướt sóng

NEED TO FILL

Đọc thêm

Chèo thuyền kayak trên Vịnh Hạ Long

14/09/2024

Chèo thuyền kayak

NEED TO FILL

Đọc thêm

Điểm lặn biển đẹp ở Việt Nam nổi tiếng

14/09/2024

Lặn bình dưỡng khí và Lặn ống thở

NEED TO FILL

Đọc thêm